Kiến thức Wiki
Advertisement

Bạch Đằng giang phú (Phú sông Bạch Đằng) là một kiệt tác trong văn chương cổ Việt Nam. Về mặt nghệ thuật, đây là tác phẩm thể hiện đỉnh cao của tài hoa viết phú. Về nội dung tư tưởng, Bạch Đằng Giang phú là áng văn tràn đầy lòng yêu nước, tráng chí chất ngất, cùng tinh thần tự hào dân tộc và hàm chứa một triết lý lịch sử sâu sắc khi nhìn nhận nguyên nhân thành công của dân tộc trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước.

Tác giả[]

Trương Hán Siêu (?-1354) tên tự là Thăng Phủ hiệu là Độn Tẩu, người xã Phúc Am huyện Yên Khánh tỉnh Ninh Bình. Không biết ông sinh năm nào, chỉ biết ông mất năm 1354 đời vua Trần Dụ Tông. Thời trai trẻ ông được Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn rất tin phục và tiến cử lên triều đình. Với nhiều công trạng trong hai cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên, năm 1308 vua Trần Anh Tông thăng cho Trương Hán Siêu chức Hàn lâm học sĩ. Đến đời vua Trần Dụ Tông ông lại được giao nhiều chức vụ quan trọng. Năm 1353 khi thống lĩnh đạo quân Thần Sách đi trấn đất Hóa Châu (Bình Trị Thiên) ông bị bệnh nặng. Năm sau cáo bệnh xin về nhưng chưa đến kinh đô ông đã qua đời. Nhà vua vô cùng thương tiếc đã tặng ông chức Thái Bảo.

Trương Hán Siêu là người học vấn sâu rộng. Ông đã đem hết tài năng tâm huyết ra phục vụ cho non sông đất nước. Là người tính tình thẳng thắn bộc trực, cho nên cuộc đời làm quan của ông không ít thăng trầm. Ông chỉ biết gửi gắm tâm sự của mình vào thơ:

Ngày này năm ngoái hoa đương rộ,
Không rượu ngồi suông khách với ta.
Trái ngược việc đời thường vẫn thế,
Hôm nay có rượu lại không hoa.
(Vịnh hoa cúc)

Trương Hán Siêu không oán trách đời, cũng không oán trách người, ông chỉ thấy con đường hoạn lộ thật mệt mỏi. Ông muốn học theo Đào Tiềm (người đời Tấn, Trung Quốc) xin về ẩn dật vui thú điền viên.

Có lẽ vì cốt cách thanh cao ấy nên các vua đời Trần rất kính trọng ông, thường gọi ông là thầy mà không gọi bằng tên. Sau khi qua đời Trương Hán Siêu được truy tặng chức Thái Phó và được thờ tại Văn Miếu.

Thơ văn của ông để lại cho đời không nhiều, song bài "Bạch Đằng giang phú" quả là một áng thiên cổ hùng văn. Khí thế hừng hực của quân dân đời Trần như hiện ra trên từng con chữ, khiến 700 năm sau người đọc còn thấy gai người. Hãy xem lũ giặc.

Vậy mà với ý chí quật cường bất khuất, với hào khí Đông A, bọn giặc Nguyên xâm lược đã phải chuốc lấy thảm bại nhục nhã muôn đời:

Muôn đội thuyền bày rừng cờ phấp phới,
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói...
... Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp hoại.
Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay.
Bến Hợp Phì giặc Bồ Kiên lát giây chết trụi.
Đến nay nước sông tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù không rửa nổi.

Là một học giả uyên thâm của Nho giáo lẫn đạo Phật, Trương Hán Siêu công kích mạnh mẽ bọn đội lốt thầy tu làm sai lạc Phật pháp: "...Bọn áo thâm áo vàng tụ tập ở chùa, không cày mà ăn, không dệt mà mặc. Những kẻ thất phu thất phụ, thường bỏ cửa nhà, bỏ làng xóm lũ lượt quy theo".(Văn bia chùa Khai Nghiêm) Ông muốn mọi người lĩnh hội đúng giáo lý, đúng mục đích của Phật đạo, khiến kẻ ngu được giác ngộ, kẻ mê sẽ tỉnh để trở về với thiện nghiệp... Trương Hán Siêu không chỉ là danh Nho đương thời mà còn là bậc danh Nho của muôn đời.

Thơ[]

Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ,
Tam Ngô, Bách Việt.
Nơi có người đi,
Đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Bèn giữa dòng chừ buông chèo,
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.
Qua cửa Đại Than,
Ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng,
Thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc,
Phong cảnh ba thu.
Bờ lau san sát,
Bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy,
Gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm,
Đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
Bên sông bô lão hỏi,
Hỏi ý ta sở cầu.
Có kẻ gậy lê chống trước,
Có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái ta mà thưa rằng:
"Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao".
Đương khi ấy:
Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa:
Tất Liệt thế cường,
Lưu Cung chước dối.
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.
Thế nhưng:
Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay sông nước tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
Tái tạo công lao,
Nghìn xưa ca ngợi.
Tuy nhiên:
Từ có vũ trụ,
Đã có giang san.
Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an!
Hội nào bằng hội Mạnh Tân, có vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ, có quốc sĩ họ Hàn.
Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi,
Bia miệng không mòn.
Đến chơi sông chừ ủ mặt,
Nhớ người xưa chừ lệ chan.
Rồi vừa đi vừa ca rằng:
"Sông Đằng một dải dài ghê,
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!"
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
"Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu thoát hiểm cốt mình đức cao."

白藤江賦

客有:
掛汗漫之風帆,
拾浩蕩之海月。
朝嘎舷兮沅湘,
暮幽探兮禹穴。
九江五湖,
三吳百粵。
人跡所至,
靡不經閱。
胸吞雲夢者數百而,
四方壯志猶闕如也。
乃舉楫兮中流,
縱子長之遠遊。
涉大灘口,
溯東潮頭。
抵白藤江,
是泛是浮。
接鯨波於無際,
蘸繇尾之相繆。
水天一色,
風景三秋。
渚获岸蘆,
瑟瑟颼颼。
折戟沉江,
枯骨盈丘。
慘然不樂,
佇立凝眸。
念豪傑之已往,
嘆蹤跡之空留。
江邊父老,
謂我何求。
或扶黎杖,
或棹孤舟。
揖余而言曰:
此重興二聖擒烏馬兒之戰地,
與昔時吳氏破劉弘操之故洲也。
當期:
舳艫千里,
旌旗旖旎。
貔貅六軍,
兵刃蜂起。
雌雄未決,
南北對壘。
日月昏兮無光,
天地凜兮將毀。
彼:
必烈之勢強,
劉龔之計詭。
自謂投鞭,
可掃南紀。
既而:
皇天助順,
凶徒披靡。
孟德赤壁之師談笑飛灰,
符堅合淝之陣須臾送死。
至今江流,
終不雪恥。
再造之功,
千古稱美。
雖然:
自有宇宙,
故有江山。
信天塹之設險,
賴人傑以奠安。
孟津之會鷹揚箬呂,
濰水之戰國士如韓。
惟此江之大捷,
猶大王之賊閒。
英風可想,
口碑不刊。
懷古人兮隕涕,
臨江流兮厚顏。
行且歌曰:
大江兮滾滾,
洪濤巨浪兮朝宗無盡。
仁人兮聞名,
匪人兮俱泯。
客從而賡歌曰:
二聖兮並明,
就此江兮洗甲兵。
胡塵不敢動兮,千古昇平。
信知:不在關河之險兮,
惟在懿德之莫京

Advertisement